8 điều bạn cần biết về ung thư tuyến giáp thể nhú

8 điều bạn cần biết về ung thư tuyến giáp thể nhú

Chẩn đoán ung thư tuyến giáp thể nhú như thế nào?

Có nhiều người thắc mắc: “Tại sao lại được gọi là ung thư tuyến giáp thể nhú?”

Người ta phân loại ung thư này là thể nhú là do sau khi sinh thiết và lấy được tế bào tuyến giáp, cho soi dưới kích hiển vi hoặc chỉ cần mắt thường khi phẫu thuật thôi thì sẽ thấy những tế bào ung thư có dạng các nhú nhỏ, nhô ra giống như các ngón tay.

Trong việc chẩn đoán, bệnh nhân có thể được làm sinh thiết để chọc hút lấy tế bào ung thư sau đó các kỹ thuật viên sẽ soi chúng dưới kính hiển vi rồi trả kết quả cho bác sĩ, từ đó đưa ra kết luận.

 

Ung thư tuyến giáp thể nhú dưới kính hiển vi

Ung thư tuyến giáp vi mô nhú là gì?

Bản chất ung thư tuyến giáp vi mô nhú là một nhánh nhỏ của ung thư tuyến giáp thể nhú. Nói một cách dễ hiểu thì ung thư tuyến giáp vi mô nhú có thể được coi là ung thư giai đoạn đầu của ung thư tuyến giáp thể nhú.

Khi đó các tế bào ung thư dạng nhú có chiều ngang dưới 1cm. Các khối u nhỏ hơn chỉ được tính bằng đơn vị mm. Những tế bào vi mô này có độ nguy hiểm rất thấp.

Các bệnh ung thư tuyến giáp thường khởi phát từ những tế bào siêu nhỏ như vậy, sau đó chúng phát triển dần và đạt đến kích thước tế bào tại thời điểm chẩn đoán.

Ung thư tuyến giáp thể nhú có thể di căn hay không?

Di căn có nghĩa là các tế bào ung thư di chuyển và khu trú ở nơi khác.

Ung thư tuyến giáp thể nhú thường di căn hạch vùng, có thể di căn sớm ngay cả khi khối u còn nhỏ, khoảng 40% các trường hợp di căn hạch vùng ở thời điểm chẩn đoán. Di căn theo đường máu chiếm khoảng 10% và có 1-2% di căn xa ở thời điểm chẩn đoán.

Như vậy ung thư tuyến giáp thể nhú có thể di căn, nhưng những trường hợp di căn xa chiếm tỉ lệ rất thấp.

Ung thư thể nhú di căn ở vùng lân cận

 

Ung thư tuyến giáp thể nhú có triệu chứng gì không?

Ở từng giai đoạn thì ung thư tuyến giáp thể nhú lại có triệu chứng khác nhau

Ở giai đoạn sớm:

Hầu hết mọi người mắc ung thư tuyến giáp thể nhú không có triệu chứng gì, đặc biệt là ở giai đoạn sớm của bệnh. Không có xét nghiệm máu phát hiện ra ung thư tuyến giáp thể nhú, và trong phần lớn các trường hợp là tình cờ phát hiện ra ung thư.

Trong một vài trường hợp, bệnh có thể được phát hiện bằng sự thăm khám của bác sĩ bằng cách sờ quanh cổ bệnh nhân. Ngoài ra có thể tình cơ phát hiện khi thực hiện chụp CT hoặc MRI.

Ở giai đoạn muộn hơn:

Bệnh nhân có thể khi thấy sự thay đổi trong giọng nói hoặc thậm chí gặp khó khăn khi nuốt. Ở những trường hợp muộn và nặng hơn nữa, bệnh nhân có thể khó thở do khối u đã di căn đến phổi và sâu hơn là quấn quanh lấy khí quản. Nhưng những trường hợp khó thở như vậy thường chiếm tỉ lệ vô cùng hiếm.

Chung quy lại, để đảm bảo có thể chữa trị triệt để thì ung thư tuyến giáp thể nhú cần được phát hiện ở giai đoạn sớm. Đồng nghĩa với việc chúng ta cần thường xuyên khám sức khỏe và nếu được hãy đăng kí thêm chụp chiếu để an tâm.

Điều trị ung thư tuyến giáp thể nhú như thế nào?

Có khoảng 80-85% các ca bệnh ung thư tuyến giáp thể nhú được chỉ định phẫu thuật cắt bỏ. Tuy nhiên đó là với các trường hợp khối u đã tiến triển lớn.

Với những trường hợp khối u còn nhỏ và thuộc loại phát triển chậm, khuyến cáo đưa ra là nên duy trì theo dõi.

Các loại phẫu thuật thường được sử dụng là:

  • - Cắt 1 thùy hoặc 1 phần của tuyến giáp – chỉ loại bỏ thùy bị ảnh hưởng
  • - Cắt toàn bộ tuyến giáp – tức là cắt bỏ cả 2 thùy

Bệnh nhân cũng có thể được chỉ định điều trị bằng Iod phóng xạ nếu ung thu đã lan sang các mô hoặc các hạch bạch huyết lân cận.

Hình ảnh ung thư - cắt 1 thùy tuyến giáp - cắt hoàn toàn

 

Có những tiến bộ khoa học mới nhất nào hiện nay được áp dụng trong chẩn đoán và điều trị ung thư tuyến giáp?

Chỉ trong 10 năm trở lại đây, 9 loại thuốc được sử dụng cho phương pháp nhắm trúng đích đã được Cơ quan Quản lý thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt để điều trị trong ung thư tuyến giáp. Bảy loại trong số đó có thể được sử dụng để điều trị ung thư tuyến giáp thể nhú. Ba trong số đó là chất chống tạo mạch máu, nhắm vào các mạch máu cung cấp dinh dưỡng cho khối u phát triển. Tên của ba loại thuốc đó là:

  • Sorafenib
  • Lenvatininib
  • - Cabozantinib
  • Những thuốc hỗ trợ quá trình nhắm trúng đích khác liên quan đến đột biến gen như:
  • - Selpercatinib (đột biến gen RET và gen tổng hợp)
  • Pralsetinib (Đột biến gen RET)
  • - Larotrectinib (đột biết tổng hợp gen NTRK)
  • - Entrectinib (đột biết tổng hợp gen NTRK)

Những loại thuốc kể trên mang lại những lợi ích gì cho bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể nhú?

Những liệu pháp mang tính hệ thống như nhắm trúng đích, sử dụng thuốc hỗ trợ điều trị nhắm trúng đích, như đã trình bày ở trên đã và đang được áp dụng rộng rãi, ngoài những phương pháp thường được sử dụng như phẫu thuật hay điều trị bằng i-ốt phóng xạ. Những phương pháp này đều làm giảm quá trình phát triển của khối u. Từ đó bệnh nhân có thể kéo dài thời gian sống mà bệnh không tiến triển thêm.

 

Phương pháp nhắm trúng đích

 

Bệnh nhân phải sử dụng thuốc thường là những bệnh nhân không thể phẫu thuật cắt bỏ khối u, do kích thước của khối u hoặc do khối u nằm ở vị trí hiểm. Ngoài ra sử dụng thuốc còn giúp giảm kích thước khối u, hoặc hạn chế khả năng di căn của u tuyến giáp sang các vị trí khác.

Ngày càng nhiều những loại thuốc mới xuất hiện với khả năng dung nạp tốt hơn, và những dòng thuốc cũ mang đến nhiều tác dụng phụ tiêu cực lên đời sống của bệnh nhân. Điều quan trọng là các chuyên gia cần đưa ra được những rủi ro cũng như lợi ích của từng loại thuốc và nghiên cứu kĩ càng trước khi quyết định sử dụng thuốc.

Loại nghiên cứu nào đang được thực hiện để điều trị ung thư tuyến giáp thể nhú?

Cho đến nay, chưa có bất cứ một liệu pháp miễn dịch nào đủ toàn diện cũng như nhận được sự chấp nhận từ FDA. Tất cả mới chỉ dừng lại ở mức thử nghiệm. Thế những những thử nghiệm lâm sàng kết hợp trong việc sử dụng kết hợp liệu pháp miễn dịch với lần lượt hai loại liệu pháp chữa trị ung thư nhắm trúng đích khác nhau nhằm đánh giá độ hiệu quả trong thu nhỏ khối u lớn, và trên những khối u quá nhỏ hoặc không thể tiến hành phẫu thuật.

Hai loại thuốc được áp dụng trong thử nghiệm này là dabrafenib và trametinib – đã được FDA chấp thuận để điều trị ung thư tuyến giáp không biệt hóa. Tuy nhiên thử nghiệm trên không sử dụng hai loại thuốc này trên bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể nhú giai đoạn tiến triển vì sẽ khiến bệnh chuyển thành ung thư tuyến giáp không biệt hóa.

Kết luận

Ung thư tuyến giáp thể nhú thường phát triển rất chậm. Tuy nhiên để đảm bảo an toàn bệnh nhân vẫn nên thực hiện xét nghiệm sinh học phân tử trước khi tiến hành các bước điều trị, bởi vì có một số đột biến gen có thể làm cho ung thư tuyến giáp kém phản ứng hơn so với i-ốt phóng xạ. Khi đó, bệnh nhân có thể được chỉ định sử dụng phương pháp điều trị khác.